Rắn chàm quạp là gì? Các công bố khoa học về Rắn chàm quạp

Rắn chàm quạp là một loài rắn thuộc họ Rắn lục (Colubridae) có tên khoa học là Boiga dendrophila. Loài này có nhiều phân loài khác nhau và được tìm thấy chủ yếu...

Rắn chàm quạp là một loài rắn thuộc họ Rắn lục (Colubridae) có tên khoa học là Boiga dendrophila. Loài này có nhiều phân loài khác nhau và được tìm thấy chủ yếu ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của Đông Nam Á, Borneo và quần đảo Philippines. Rắn chàm quạp có kích thước trung bình từ 1,5 đến 2 mét và có màu sắc đa dạng, từ xanh lá cây, vàng đến nâu và đen. Chúng thích sống trong các khu rừng, cây cối và cây bụi để săn mồi, bao gồm cả các loài động vật như động vật có vú và thú nhỏ.
Rắn chàm quạp (Boiga dendrophila) còn được gọi là rắn cây xanh hay rắn chàm cây. Đây là một loài rắn trưởng thành có kích thước trung bình từ 1,5 đến 2 mét, nhưng có thể lên tới 3 mét ở một số trường hợp. Đây là loài rắn đêm, hoạt động chủ yếu vào ban đêm, nhưng cũng có thể được tìm thấy ban ngày.

Rắn chàm quạp có vẻ ngoài đẹp mắt và màu sắc đa dạng. Chúng có thể có màu xanh lá cây, vàng, nâu và đen. Màu sắc của chúng thường phù hợp với môi trường sống để tránh sự nhận biết của kẻ săn mồi và kẻ thù.

Loài rắn này sống chủ yếu trong các khu rừng, cây bụi và cánh đồng. Chúng thích trèo lên cây cao và săn mồi từ trên cao. Chúng có khả năng di chuyển linh hoạt và nhanh chóng trên cành cây và dùng đuôi của mình để đảm bảo sự ổn định trong quá trình di chuyển.

Rắn chàm quạp là loài ăn thịt và chủ yếu săn mồi bằng cách kẹp vào và nắm chặt con mồi bằng miệng. Chúng săn mồi như các loài động vật có vú nhỏ, chim, thằn lằn và cả các loài khác của rắn. Loài này không độc hại cho con người và ít có khả năng tấn công con người nếu không bị xâm phạm hoặc tự vệ.

Rắn chàm quạp đẻ trứng, mỗi lứa có thể có từ 6 đến 18 trứng. Thời gian ấp trứng kéo dài từ 50 đến 60 ngày. Khi các con trưởng thành nở ra, chúng lái cây xa rừng và tự tìm kiếm khu vực sống mới.

Trong tự nhiên, rắn chàm quạp rất quan trọng trong việc kiểm soát dân số các loài động vật có vú và cung cấp cân bằng sinh thái trong hệ sinh thái của chúng.
Rắn chàm quạp có hình dạng thon dài, cơ thể mềm mại và đầu nhỏ. Chúng có mắt lớn, lưỡi dài và nhạy bén, giúp chúng hiểu rõ môi trường xung quanh. Da của rắn chàm quạp mượt mà và chứa các vảy nhỏ, cho phép chúng di chuyển một cách linh hoạt và dễ dàng trên các cành cây và cây bụi.

Màu sắc của rắn chàm quạp phụ thuộc vào phân loài. Có các phân loài có màu xanh lá cây sáng, xanh lá cây tối, vàng nhạt, vàng đậm, nâu đỏ và đen. Màu sắc này giúp chúng hoà nhập vào môi trường sống và tránh được sự chú ý của kẻ săn mồi và kẻ thù.

Rắn chàm quạp là loài giữa đỉnh cận đỉnh trong chuỗi thức ăn. Chúng săn mồi bằng cách tiếp cận mục tiêu một cách hết sức tinh vi. Khi gần đủ, chúng một nhát đột ngột để nắm chặt con mồi bằng toàn bộ hàm răng của mình. Rắn chàm quạp có thể nuốt một con mồi lớn hơn nhiều so với kích thước của nó nhờ khối lượng linh hoạt và cơ động của cơ thể.

Về sinh sản, rắn chàm quạp đẻ trứng. Các con trưởng thành đẻ từ 6 đến 18 trứng vào cuối mùa xuân hoặc đầu mùa hè. Các trứng được rắn chàm quạp đặt trong các khe nằm ở vị trí dễ tìm, chẳng hạn như trong các hốc cây hoặc dưới tán cây. Thời gian ấp trứng kéo dài từ 50 đến 60 ngày, sau đó con non nở ra.

Rắn chàm quạp là loài không độc hại đối với con người. Mặc dù nó có thể tấn công khi cảm thấy bị đe dọa và cảm thấy bị xâm phạm, nhưng những trường hợp này rất hiếm. Do đó, rắn chàm quạp thường được coi là an toàn cho con người, tuy nhiên, vẫn cần người tiếp cận với cẩn thận và tránh gây rối đến chúng trong tự nhiên.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "rắn chàm quạp":

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHI BỊ RẮN CHÀM QUẠP CẮN TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 503 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Xác định đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhi bị rắn chàm quạp cắn nhập Bệnh viện Nhi đồng 1. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hàng loạt ca trên 54 trẻ bị rắn chàm quạp cắn nhập khoa Cấp cứu, Bệnh viện Nhi đồng 1 từ ngày 01/01/2011 đến ngày 31/12/2020. Kết quả: Gần 100% trường hợp sưng nề và đau tại chỗ, dấu móc độc 72,2%. Tỉ lệ nhiễm trùng và hoại tử vết thương khá cao (37,0% và 38,9%). 44,4% xuất hiện bóng nước và khi có bóng nước thì 100% có xuất huyết trong bóng nước. Có mối tương quan giữa bóng nước, nhiễm trùng, hoại tử với mức độ nhiễm độc (p < 0,001). Bầm máu 55,6%, chảy máu vết cắn 46,3%, xuất huyết da 46,3%, chảy máu nướu răng 14,8%, xuất huyết tiêu hóa 1,9%, thiểu niệu (1,9%), hạ huyết áp (1,9%) chủ yếu gặp ở bệnh nhân nhiễm độ nặng. Có mối tương quan giữa bầm máu, chảy máu vết cắn, xuất huyết da với mức độ nhiễm độc (p < 0,001). Vết thương lan rộng qua 2 khớp 55,5%. Rối loạn chức năng đông máu là biểu hiện thường gặp 94,6%, trong đó DIC chiếm 57,5% với fibrinogen giảm < 1g/L (59,3%), PT kéo dài (53,7%), INR > 1,5 (46,3%), tiểu cầu giảm < 150.000/mm3 (40,7%), aPTT kéo dài (35,2%). Sự thay đổi xét nghiệm chức năng đông máu và mức độ nhiễm độc có mối tương quan có ý nghĩa thống kê, p < 0,001. Kết luận: Ở những bệnh nhân có độ sưng nề vết thương lan rộng qua 2 khớp có tỉ lệ nhiễm độc mức độ nặng cao gấp 2,8 lần (KTC 95%: 1,5 – 5,1), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,001
#rắn cắn #rắn chàm quạp #huyết thanh kháng nọc rắn
CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG BỆNH NHI BỊ RẮN CHÀM QUẠP CẮN TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1
Mục tiêu: Xác định một số mối tương quan để tiên lượng bệnh ở bệnh nhi bị rắn Chàm quạp cắn nhập Bệnh viện Nhi Đồng 1. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu và tiến cứu hàng loạt ca trên 54 trẻ bị rắn Chàm quạp cắn nhập khoa Cấp cứu, Bệnh viện Nhi đồng 1 từ ngày 01/01/2011 đến ngày 31/12/2020. Kết quả: Thời gian nhập viện càng muộn thì mức độ nhiễm độc càng nặng (p < 0,001). Ở những bệnh nhân đắp thuốc làm chậm muộn thời gian nhập viện,có tỷ lệ nhiễm độc mức độ nặng cao gấp 3,2 lần (KTC 95%: 1,4 - 7,5), p = 0,002. Ở nhóm bệnh nhân nhiễm độc nặng có sự thay đổi xét nghiệm chức năng đông máu nhiều và thời gian nằm viện điều trị kéo dài hơn (p < 0,001). Nổi bóng nước làm tăng tỷ lệ hoại tử, nhiễm trùng, bầm máu, hoại tử vết thương và đông máu nội mạch lan tỏa (p < 0,001). Xuất huyết da làm tăng tỷ lệ chảy máu vết cắn, chảy máu nướu răng và đông máu nội mạch lan tỏa (p < 0,001). Kết luận:Theo dõi sát các bệnh nhi nhập viện muộn; xử trí không đúng trước nhập viện; có các triệu chứng tại chỗ như: bóng nước, bầm máu, nhiễm trùng tại chỗ, hoại tử; các triệu chứng xuất huyết như: chảy máu vết cắn, xuất huyết da và độ sưng nề vết thương > 2 khớp để có chỉ định kịp thời huyết thanh kháng nọc rắn, giảm tỷ lệ tử vong và di chứng.
#Rắn cắn #rắn Chàm quạp #yếu tố tiên lượng
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC VÀ TÌNH HÌNH SƠ CỨU BAN ĐẦU Ở BỆNH NHI BỊ RẮN CHÀM QUẠP CẮN TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 503 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Xác định đặc điểm dịch tễ học và các biện pháp sơ cứu đúng, chưa đúng của thân nhân bệnh nhi đối các trẻ bị rắn chàm quạp cắn. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hàng loạt ca trên 54 trẻ bị rắn chàm quạp cắn nhập khoa Cấp cứu, bệnh viện Nhi đồng 1 từ ngày 01/01/2011 đến ngày 31/12/2020. Kết quả: Tuổi trung bình là 8,5 tuổi (2 tuổi – 15 tuổi), từ 6 tuổi trở lên chiếm 68,5%. Tỉ lệ nam/nữ là 1,8/1. Tai nạn xảy ra quanh năm nhất là vào những tháng mùa mưa 66,8% từ tháng 5 đến tháng 11, 77,8% bị cắn trong khoảng thời gian từ 12 giờ đến 24 giờ. Bình Phước là địa phương có bệnh nhi bị rắn chàm quạp cắn nhập viện nhiều nhất (29,6%). 53,7% trẻ bị cắn ở xung quanh nhà và trong nhà, đa số do vô tình cắn 96,3%, 57,4% trường hợp đem theo rắn sau khi bị rắn cắn. Hơn 70% vết cắn nằm ở chân, nhất là bàn chân 61,1%.  72,2% trường hợp sơ cứu không đúng (thường gặp là garrot, rạch da, hút nặn nọc độc, đắp thuốc…). 77,7% trường hợp nhập viện trong 24 giờ sau khi bị rắn cắn. Kết luận: Những bệnh nhi có đi thầy lang đắp thuốc thì có tỉ lệ nhiễm độc mức độ nặng cao gấp 3,2 lần (KTC 95%: 1,4 – 7,5), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p = 0,002. Thời gian nhập viện càng trễ thì tỉ lệ nhiễm độc mức độ nặng càng cao, có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
#rắn cắn #rắn chàm quạp #sơ cứu
Tổng số: 3   
  • 1